Sự cải đạo của Thánh Phaolô, Ngày 25/01: Lễ kính Thánh Phao-lô tông đồ trở lại

Sự cải đạo của Thánh Phaolô, Ngày 25/01: Lễ kính Thánh Phao-lô tông đồ trở lại

Sự cải đạo của Thánh Phaolô, Ngày 25/01: Lễ kính Thánh Phao-lô tông đồ trở lại

Cở Sở Điêu Khác Đá Huy Hùng

Tỉ mỉ trên từng nét chạm

  • 0918427359
  • huyhungstatue@gmail.com

0

Giỏ hàng

0 vnđ

Sự cải đạo của Thánh Phaolô, Ngày 25/01: Lễ kính Thánh Phao-lô tông đồ trở lại

Nói đến thánh Phao-lô là nói đến mầu nhiệm ơn gọi tông đồ cũng như sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên cuộc đời sứ vụ của ông.

Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một chàng có tên gọi là Sao-lô, ở Tac-xô, là người Do thái, trí thức, có thể nói ông là người đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Ga-ma-li-ên ở Giê-ru-sa-lem, nhiệt thành đến nỗi, tham gia vào vụ giết Tê-pha-nô và rong ruổi mọi đường Đa-mát truy lùng các Kitô hữu.

 

Đền thờ Thánh Phaolô tại Rôma

 

Đối với Phao-lô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phao-lô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.

Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Ki-tô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Sao-lô. Thần Khí của Đấng Phục sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Sao-lô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các Ki-tô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Sao-lô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết. 

Chúa Ki-tô Phục sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Sao-lô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phao-lô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Ki-tô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giê-su Ki-tô. Phao-lô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Sao-lô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm tử nạn Phục sinh của Chúa Giê-su. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các dân ngoại. 

Rõ ràng là Ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Sao-lô bằng tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Kha-na-ni-a, và Phao-lô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Sao-lô một người duy nhất giữa muôn người. Cú ngã ngựa trên đường Đa-mát, biến Sao-lô thành chứng nhân vĩ đại là Phao-lô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô. Từ đây cuộc đời của Phao-lô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Ki-tô.

 

Tượng Thánh Phaolô cao 250cm bằng đá Cẩm Thạch, được điêu khắc bởi Huy Hùng

 

Ý Trời hay ý muốn của Chúa Giê-su, Người mà ông đã ghét cay ghét đắng, căm thù đến tận xương tủy, khi chưa có dịp gặp, mà chỉ nghe nói đến do những kẻ thù của Chúa. Nhưng khi ông đã gặp Chúa Giê-su, tất cả đều thay đổi.

Chúa Ki-tô Phục sinh đã đổi mới tư tưởng và trái tim của Phao-lô. Không biết Đức Giê-su tại thế, Phao-lô đã ghét cay ghét đắng và sát hại không thương tiếc các môn đệ của Người. Giờ đây trái tim của Phao-lô được Chúa Giê-su chiếm lĩnh như chiếm đoạt trái tim của người yêu (Pl 3, 12 ). Và Phao-lô trở nên như một “người tình” của Chúa Giê-su, đến nỗi Phao-lô phải thú nhận: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ). 

Đúng như Phao-lô viết: “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14), tất cả nhiệt tình nơi con người và cuộc đời Phao-lô đều phát xuất từ mối tình đó: Tình yêu của Chúa Ki-tô là “chủ thể yêu thương Phao-lô”, Tình yêu Chúa Ki-tô là “đối tượng mà Phao-lô yêu mến”. Tâm trí của Phao-lô đã hoàn toàn mở ra cho Chúa Ki-tô, và vì thế có khả năng mở rộng cho mọi người. Phao-lô trở nên tất cả cho mọi người (1 Cr 9, 12), sẵn sàng làm mọi sự cho “Tin Mừng tình yêu” mà người rao giảng. 

Phao-lô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Ki-tô. Biết mình đã tin vào ai, Phao-lô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9,3-18; 2 Cr11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Ki-tô. Phao-lô không ngại hùng hồn kể về những ”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; phải chịu đủ thứ nguy hiểm và ra vào tù nhiều lần.

 

 

Phao-lô đã trở thành vị “Tông đồ của mọi thời đại”. Là Do thái với người Do Thái, Hy Lạp với người Hy Lạp, là người tự do, nhưng trở thành nô lệ của mọi người để phục vụ mọi người (1 Cr 9, 19 – 21), Phao-lô cũng có thể là Việt Nam với người Việt Nam, là Thái với người Thái, Phi với người Phi, Hàn Quốc với người Hàn Quốc. 

Không những là “con người của tình yêu”, Phao-lô còn là “con người của chân lý”. Đối với Phao-lô, chân lý là “Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô”  “Chân lý về một Tình Yêu mạnh hơn sự chết”, đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy từ cõi chết, trở thành nơi hội tụ của toàn thể nhân loại, toàn thể thế giới thụ tạo của Thiên Chúa.

 

Tượng Thánh Phaolô được đặt tại nhà thờ

 

Chia sẻ: